CỘI NGUỒN VÀ Ý NGHĨA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27-7
CỘI NGUỒN VÀ Ý NGHĨA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27-7
TIN TỔNG HỢP
|
Nhân kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27/7/1947– 7/7/2014), chúng ta ôn lại sự ra đời của Ngày Thương binh-Liệt sĩ 27/7, để tuyên truyền về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, cũng như sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người có công với Cách mạng từ trước đến nay. Công đoàn nhà trường viết bài cùng toàn thể các đồng chí CBGV, nhân viên và các em học sinh nhà trường cùng ôn lại lịch sử ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7.
Hàng năm, cứ đến ngày 27/7 cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước ta luôn dành những tình cảm thiêng liêng nhất để tưởng nhớ, biết ơn những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh xương máu của mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để cho mỗi chúng ta có được cuộc sống thanh bình và hạnh phúc ngày hôm nay.
Nhân kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27/7/1947– 7/7/2014), chúng ta ôn lại sự ra đời của Ngày Thương binh-Liệt sĩ 27/7, để tuyên truyền về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, cũng như sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người có công với Cách mạng từ trước đến nay. Công đoàn nhà trường viết bài cùng toàn thể các đồng chí CBGV, nhân viên và các em học sinh nhà trường cùng ôn lại lịch sử ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7.
I. SỰ RA ĐỜI CỦA NGÀY THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ 27/7
Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, chặn tay bọn xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “Nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác ... Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Chiều ngày 28 tháng 5 năm 1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, “Tổng Hội” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương.
Chiều ngày 11 tháng 7 năm 1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “ Mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét mà Bác đang mặc để tặng binh sĩ. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên. Thương binh, liệt sĩ trở thành vấn đề lớn. Đời sống của chiến sĩ gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Để chủ đạo công tác này trong cả nước, ngày 26 tháng 2 năm 1947, Phòng thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam) được thành lập và đầu tháng 7 năm 1947 Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.
Tháng 6 năm 1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Thái Nguyên). Nội dung cuộc họp là thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác Thương binh liệt sĩ. Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Ngày 27/7/1947, một cuộc mít tinh quan trọng đã được diễn ra tại Thái Nguyên (có 2000 người tham gia). Tại đây Ban tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chủ Tịch. Trong thư Người viết:
“... Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu ...”.
“... Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
“... Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào.
“... Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ.
“... Tôi cũng rất mong muốn đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần...”.
Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Từ năm 1947, ngày Thương binh liệt sĩ được tổ chức thường kỳ hàng năm. Năm nào vào dịp này, Hồ Chủ Tịch cũng có thư và quà gửi anh chị em thương binh và các gia đình liệt sĩ. Tháng 7/1954 sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề chiến sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh. Từ năm 1955, ngày 27/7 ngày Thương binh được đổi thành ngày Thương binh-Liệt sĩ.
Cũng tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là “Ngày Thương binh toàn quốc”. Ông Lê Tất Đắc, đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam tham gia cuộc họp đã tóm lược về ngày đáng ghi nhớ này bằng câu ca dao:
“ Dù ai đi Đông về Tây
27 tháng 7 nhớ ngày thương binh.
Dù ai lên thác xuống ghềnh
27 tháng 7 thương binh nhớ ngày ”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một nhân cách lớn về lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người. Bác luôn quan tâm đến tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi thành phần dân tộc, tôn giáo… Đặc biệt, trong suốt 24 năm trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Bác đã giành sự quan tâm đặc biệt đến Thương binh - Liệt sỹ là những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Trong lời dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“...Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực, cánh sinh” ”.
“...Đối với các Liệt sỹ, mỗi địa phương cần phải xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm để ghi công sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”.
“...Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sỹ, mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Là người lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu và đánh giá cao những hy sinh, mất mát của các thương binh, liệt sỹ và thân nhân gia đình của họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngay từ năm 1946, giữa bộn bề công việc của những ngày tháng đang từng bước chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho Thương binh - Liệt sỹ và đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi với một tấm lòng thành kính “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh của mình cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Không muốn chiến tranh, nhân nhượng khi còn nhân nhượng được, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người luôn khát khao hoà bình, khát khao “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi” và cho cả nhân dân Pháp yêu chuộng tự do, hoà bình, công lý, đã từng nỗ lực để vãn hồi hoà bình. Người quan niệm chiến thắng mà không cần phải đổ máu là tốt nhất, song khi thực dân Pháp cố tình gây chiến, thì toàn dân đều ra trận, “Toàn quốc kháng chiến” theo lời hiệu triệu vang dậy núi sông của Người.
Có chiến tranh là có đầu rơi, máu chảy và trong cuộc chiến tranh Việt - Pháp năm xưa, đã có biết bao người con của dân tộc Việt Nam đã bỏ lại một phần thân thể ở chiến trường hoặc hy sinh cả tính mệnh của mình. Máu đào của họ đã hoà cùng non sông, gấm vóc và họ đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cảm động trước sự hy sinh cao cả của những người con yêu quý đó, khi nhận được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh (01/1947), Người đã viết thư gửi người cha khi vừa mất đứa con yêu của mình: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam”.
Hàng năm đến ngày 27 tháng 7, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Từ tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Từ năm 1970, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 01 tháng 12 hàng năm làm “Ngày Thương binh, Liệt sĩ”. Theo đó, hàng năm đến ngày 01 tháng 12, cùng với việc cử các đoàn đại biểu đến tặng quà, úy lạo thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều có thư động viên, thăm hỏi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở quân dân các địa phương quan tâm, săn sóc, giúp đỡ anh, chị em.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8 tháng 7 năm 1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” của cả nước.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới), đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến ngày “Thương binh, Liệt sĩ” ngày 27/7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và cuộc sống yên bình của nhân dân mà hy sinh, cống hiến.
II. THÀNH TỰU 67 NĂM CÔNG TÁC THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ, NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
Kể từ Sắc lệnh số 20/SL đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ” đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và thực hiện thống nhất trong cả nước một hệ thống chính sách, chế độ đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xây dựng hệ thống chính sách, chế độ này là nhằm ghi nhận và tôn vinh thành tích; đền đáp một phần cống hiến hy sinh của đồng bào và chiến sĩ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; bảo đảm cho người được hưởng chính sách, chế độ đãi ngộ, hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần, có điều kiện đóng góp nhiều hơn nữa cho cộng đồng, xã hội.
Các chính sách, chế độ đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng ngày càng được mở rộng về đối tượng (thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến, người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh); các định mức trợ cấp đối với chính sách ưu đãi xã hội được mở rộng đối tượng và từng bước nâng cao; đa dạng hơn hình thức chăm sóc (chế độ nhà ở, ưu đãi thực hiện chính sách thuế, ưu đãi giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe...). Việc ban hành và thực hiện Pháp lệnh “Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” và Pháp lệnh “Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đã góp phần to lớn vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần ổn định xã hội, tác động sâu sắc làm tăng thêm tình cảm và trách nhiệm của các tầng lớp xã hội trong phong trào toàn dân chăm sóc người có công với cách mạng.
Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta có chủ trương, chính sách từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng, an dưỡng nhằm bảo đảm và tăng cường chất lượng chăm sóc thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nhiều trung tâm phục hồi chức năng phục vụ thương binh, bệnh binh đã ra đời và hoạt động có hiệu quả tốt. Nhà nước đã tạo điều kiện và hỗ trợ nhiều cơ sở nghiên cứu, sản xuất phương tiện chuyên dùng cho thương binh và người tàn tật vì chiến tranh như chân giả, tay giả, xe lăn, nạng chống, giày dép, chỉnh hình...; tổ chức xây dựng nhiều trường học, cơ sở đào tạo, trung tâm thực hành và các xưởng sản xuất phục vụ việc đào tạo, dạy nghề, sản xuất, kinh doanh dành cho các đối tượng thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
Một thành tựu đáng kể nữa là Đảng, Nhà nước đã tổ chức phát động và thực hiện phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, đã động viên mọi nguồn lực, trước hết là các nguồn lực tại chỗ để giúp đỡ những người có công với cách mạng. Đây là phong trào có quy mô lớn, trên diện rộng, có sức thu hút và lay động lòng người, đem lại những kết quả hết sức to lớn, thiết thực. Thụ hưởng kết quả của phong trào này, nhiều thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng đã được giúp đỡ kịp thời, giải quyết được nhiều nhu cầu bức thiết về nhà ở, việc làm, học tập, chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần hằng ngày khác. Nhiều phong trào thi đua yêu nước hướng tới mục tiêu chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng đã được tổ chức rất thành công. Tiêu biểu là phong trào “Nhận đón thương binh, bệnh binh về gia đình, sắp xếp việc làm và nuôi dưỡng”, phong trào “Người con hiếu thảo chăm sóc bố mẹ liệt sĩ”; các phong trào tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; phong trào Trần Quốc Toản - các cháu thiếu niên giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ...Các phong trào này diễn ra trên phạm vi cả nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, và mang lại hiệu quả thiết thực. Từ phong trào này đã dần phát triển thành các chương trình lớn như: xây dựng nhà tình nghĩa; đón thương binh nặng về chăm sóc tại gia đình; nhận chăm sóc bố mẹ liệt sĩ cô đơn, trẻ em con liệt sĩ không nơi nương tựa; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng... Cùng với các chương trình trên, nhân dân trong cả nước còn sáng tạo ra nhiều mô hình, nhiều hình thức đền ơn đáp nghĩa và ngày xuất hiện nhiều hơn các gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến của công tác này. Điển hình như mô hình phân công, vận động đơn vị bộ đội, doanh nghiệp tìm việc làm cho thân nhân người có công do Bộ Quốc phòng thực hiện; mô hình vườn cây cho gia đình người có công ở Thái Nguyên… Những mô hình này cần được phổ biến, nhân rộng.
Tiếp nhận nhiều mặt quan tâm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và sự giúp đỡ nghĩa tình của con người và xã hội, các gia đình chính sách có thêm nhiều thuận lợi để khắc phục khó khăn, vượt lên trên di chứng chiến tranh, phát huy sức mạnh tinh thần quả cảm, tạo lập cuộc sống an bình, hòa nhập cộng đồng. Trong cả nước đã có nhiều tấm gương thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng trên nhiều lĩnh vực: học tập, lao động sản xuất, kinh doanh và hoạt động văn hóa xã hội, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chính mình, làm giàu cho quê hương, đất nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng luôn phấn đấu trở thành những “Công dân kiểu mẫu”, “Gia đình cách mạng gương mẫu”, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những tấm gương sáng để mọi người noi theo.
Nhà nước đã quan tâm đầu tư xây dựng, tu bổ, chỉnh trang các nghĩa trang liệt sĩ, nơi yên nghỉ của những người con ưu tú của đất nước. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ đã trở thành công trình văn hóa - du lịch lịch sử nổi tiếng như các nghĩa trang: Điện Biên Phủ, Hàng Dương, Trường Sơn, Đường 9, Đồng Tháp... Cùng với đó nhiều công trình tưởng niệm liệt sĩ, tượng đài liệt sĩ, nhà bia liệt sĩ....đã được xây dựng khang trang. Tên của nhiều liệt sĩ tiêu biểu đã được đặt cho tên đường, tên phố, nhà trường, bệnh viện, các công trình kiến trúc... có ý nghĩa giáo dục nhân văn sâu sắc.
Đảng, Nhà nước quan tâm từng bước giải quyết những vấn đề trợ cấp xã hội nhằm bảo đảm đời sống cho các đối tượng chính sách xã hội ở mức độ huy động và động viên cao nhất tiềm lực, khả năng của đất nước và nhân dân. Nhiều thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng giảm sút hoặc không có khả năng lao động đã nhận được sự trợ giúp rất quan trọng từ nhiều nguồn lực của xã hội. Việc tìm kiếm, xác minh, kết luận các trường hợp bị thương, hy sinh, tù đày, mất tích, nhiễm chất độc hóa học....còn tồn đọng đã được triển khai tích cực, thể hiện sự trân trọng, biết ơn của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân. Công tác tìm kiếm, phát hiện, quy tập mộ liệt sĩ được chú trọng và thu hút được nhiều kết quả trên nhiều mặt, đáp ứng đúng yêu cầu tình cảm đối với thế hệ sau chiến tranh.
Hàng năm, cứ mỗi dịp 27/7, tuổi trẻ và mỗi người dân Việt Nam lại vô cùng xúc động, tưởng nhớ đến các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh, các mẹ Việt Nam anh hùng, các thương, bệnh binh đã hy sinh xương máu của mình, tô thắm những trang sử vẻ vang của dân tộc. Vì Tổ quốc, vì nhân dân, rất nhiều người con của dân tộc, trong đó có những người tuổi đời mới mười chín, đôi mươi đã gạt lại phía sau những hạnh phúc riêng tư, những giảng đường đại học để lên đường tranh đấu vì độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Biết bao người đã để lại một phần thân thể, đã hy sinh máu xương vì lý tưởng cao đẹp, như anh hùng lực lượng vũ trang, liệt sỹ, bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm đã viết: "Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng ...". Tuổi trẻ hôm nay xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những anh hùng liệt sỹ, các mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho cách mạng, đồng thời bày tỏ sự chia sẻ sâu sắc đối với các gia đình liệt sỹ còn chưa tìm được hài cốt con em mình. Thế hệ trẻ hôm nay tin rằng, máu của các anh, các chị đã tô thắm lá cờ đỏ của Tổ quốc quang vinh, linh hồn của các anh, các chị mãi mãi bất diệt và phù hộ cho đất nước hôm nay.
Đáp lại những ân tình đó, phong trào "Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" đã trở thành hoạt động thường xuyên, thể hiện qua các hoạt động cụ thể như: chăm sóc, giúp đỡ các gia đình thanh niên xung phong neo đơn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; tặng sổ tiết kiệm cho mẹ Việt Nam anh hùng; nhận chăm sóc phụng dưỡng thương bệnh binh, gia đình thương binh, liệt sỹ; tu sửa các nghĩa trang liệt sỹ trên địa bàn thành phố Hà Nội; Chăm sóc trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm chất độc da cam; tổ chức khám bệnh, phát thuốc, tặng quà cho thương, bệnh binh tại các Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng; tổ chức các hoạt động về nguồn.... Âm hưởng của những tấm gương anh hùng, liệt sỹ như: Nguyễn Viết Xuân, Hoàng Lộc, Bùi Ngọc Dương, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc... càng trở nên sâu sắc hơn trong tâm khảm của mỗi đoàn viên, thanh niên Thủ đô, nhắc nhở chúng ta phải biết sống và hành động như các thế hệ thanh niên Hà Nội một thời anh dũng.
Hoạt động đền ơn đáp nghĩa là một việc làm thiết thực góp phần cùng toàn xã hội chăm sóc, đền đáp những người có công, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ biết sống nhân ái, biết trân trọng những giá trị cao đẹp của quá khứ, từ đó hướng tới tương lai tươi sáng.
Với lòng biết ơn vô hạn, chúng ta xin cảm ơn: Những chiến sĩ anh dũng đã mãi mãi nằm xuống nơi đất mẹ; những cô gái mở đường tải đạn; những bà mẹ Việt Nam không màng nỗi đau mất mát. Xin cám ơn tất cả những ai đã quên đi sự sống của mình để nghĩ đến sự sinh tồn của toàn dân tộc. Xin chúc tất cả các anh, chị chiến sỹ, bộ đội, thương binh, những bà Mẹ Việt Nam anh hùng, những gia đình các thương binh, liệt sỹ, những gia đình có công với các mạng và tất cả những ai đã hy sinh cho đất nước hay còn đang tiếp tục cống hiến, một ngày 27/7 ý nghĩa, tràn đầy sự nhân ái yêu thương của toàn xã hội.
CÔNG ĐOÀN TRƯỜNG THPT VIỆT YÊN SỐ 1